Người phạm tội Tham ô tài sản được miễn án tử hình trong trường hợp nào?
– Pháp luật quy định khung hình phạt đối với tội Tham ô tài sản ra sao? Nếu tham ô tài sản giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên, người phạm tội có thể được miễn án tử hình trong trường hợp nào?
Trả lời:
Theo Điều 353 của Bộ luật Hình sự 2015, người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên sẽ bị xử lý hình sự về tội Tham ô tài sản. Hình phạt cơ bản cho tội danh này là phạt tù từ 2 đến 7 năm, áp dụng khi giá trị tài sản tham ô từ 2 triệu đến dưới 100 triệu đồng.
- Hiệu trưởng trường nội trú “để học sinh ăn cơm trộn mì tôm” bị bắt tạm giam
- Hai Cực Công An “Biến Chất” Hợp Tác Cùng Bà Trùm Buôn Ma Tuý
- Xét xử cựu lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh trong vụ án nhận hối lộ đấu thầu
- Cựu CEO SCB đề nghị xem xét lại số tiền liên quan đến cáo buộc chiếm đoạt 28.000 tỷ đồng
- Người bạn ở Mỹ muốn giúp bà Trương Mỹ Lan bồi thường thiệt hại
Tuy nhiên, tùy thuộc vào giá trị tài sản chiếm đoạt hoặc mức độ thiệt hại gây ra, người phạm tội có thể bị áp dụng các tình tiết định khung khác nhau. Trong trường hợp nặng nhất, khi giá trị tài sản tham ô từ 1 tỷ đồng trở lên hoặc gây thiệt hại từ 5 tỷ đồng trở lên, người phạm tội sẽ bị xử lý theo khoản 4, Điều 353 Bộ luật này với khung hình phạt là phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Hơn nữa, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ trong thời gian 1-5 năm và phạt tiền từ 30-100 triệu đồng, có thể tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Việc áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật đối với những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi cá nhân. Tuy nhiên, cũng có những biện pháp nhân đạo như cơ hội tái hòa nhập cho những người phạm tội không may vướng vào vòng lao lý.
Cụ thể, khoản 3 của Điều 40 trong Bộ luật Hình sự 2015 chỉ rõ về việc áp dụng biện pháp tử hình và liệt kê 3 nhóm đối tượng không chịu áp dụng biện pháp này. Đó là: phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người từ đủ 75 tuổi trở lên, người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, nhận hối lộ, nhưng sau đó đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Do đó, trong trường hợp người phạm tội tham ô tài sản bị tuyên án tử hình, để có thể được xem xét giảm án, họ cần chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô và tích cực hợp tác với cơ quan chức năng hoặc lập công lớn.
Để giải thích rõ hơn về hai khái niệm này, Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã có quy định cụ thể. “Chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ” được hiểu là khi người phạm tội sau khi phạm tội đã tự nguyện nộp lại; tác động để những người thân khác nộp lại, không phản đối việc người thân nộp lại ít nhất 3/4 tài sản mà mình đã tham ô hoặc nhận hối lộ.
“Hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn” là việc sau khi phạm những tội liên quan tới tham nhũng, lạm dụng chức vụ, tự nguyện cung cấp thông tin, tài liệu hoặc chứng cứ có ý nghĩa cho quá trình phát hiện, điều tra, xử lý các tội phạm liên quan. Ví dụ như chỉ đúng nơi cất giấu các vật chứng quan trọng giúp cơ quan chức năng thu thập được chứng cứ; thông báo vị trí hoặc hoạt động của đồng phạm đang bỏ trốn hoặc cung cấp thông tin về các tội phạm và các đối tượng mới liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội. Tuy nhiên, có thể xác định thêm các trường hợp khác để áp dụng các tình tiết này nhưng điều này phải được Tòa án xác nhận rõ ràng trong bản án.
Do đó, để tránh án tử hình, người phạm tội cần thỏa mãn đồng thời cả hai điều kiện đã nêu. Nếu chỉ đáp ứng một điều kiện mà không hợp tác tích cực với cơ quan điều tra thì vẫn không đủ cơ sở để xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Hơn nữa, trong trường hợp bị Tòa án sơ thẩm tuyên án tử hình, người phạm tội còn có quyền lựa chọn gửi đơn kháng cáo lên Tòa án phúc thẩm để yêu cầu giảm nhẹ hình phạt. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thời hạn để kháng cáo là 15 ngày. Để Tòa án phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt, người phạm tội cần cung cấp các tình tiết giảm nhẹ mới so với phiên tòa sơ thẩm.